Scholar Hub/Chủ đề/#nhiễm trùng sơ sinh/
Nhiễm trùng sơ sinh là một loại nhiễm trùng xảy ra trong những ngày đầu sau khi trẻ ra đời. Đây là một tình trạng cấp tính nguy hiểm và có thể gây tử vong cho t...
Nhiễm trùng sơ sinh là một loại nhiễm trùng xảy ra trong những ngày đầu sau khi trẻ ra đời. Đây là một tình trạng cấp tính nguy hiểm và có thể gây tử vong cho trẻ sơ sinh. Nhiễm trùng sơ sinh thường xảy ra khi vi khuẩn, virus, nấm hay chủng vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào cơ thể trẻ thông qua đường sinh dục hoặc qua da và lan rộng vào hệ tuần hoàn, hệ thống hô hấp hoặc các bộ phận khác của cơ thể. Các triệu chứng của nhiễm trùng sơ sinh có thể bao gồm sốt cao, mệt mỏi, khó thở, da sưng đỏ, không ăn, nôn mửa, tiêu chảy, hoặc các dấu hiệu khác của một vi khuẩn hoặc nhiễm trùng nấm.
Nếu bạn cần thông tin chi tiết hơn về nhiễm trùng sơ sinh, đây là một số thông tin thêm:
1. Nguyên nhân: Nhiễm trùng sơ sinh có thể xuất phát từ mẹ (truyền từ mẹ sang thai nhi trong quá trình mang thai hoặc khi sinh), từ môi trường (vi khuẩn, virus, nấm), từ nhân viên y tế, hoặc từ các thiết bị y tế được sử dụng trong quá trình sinh.
2. Loại nhiễm trùng: Có nhiều loại nhiễm trùng sơ sinh như nhiễm trùng máu, nhiễm trùng tiểu niệu, nhiễm trùng hệ thống nhiễm mạc, nhiễm trùng hệ tiêu hóa, và nhiễm trùng xương khớp.
3. Triệu chứng: Các triệu chứng của nhiễm trùng sơ sinh có thể khác nhau tùy theo loại nhiễm trùng và vùng bị ảnh hưởng. Một số triệu chứng chung có thể gồm sốt cao, khó thở, da sưng đỏ, rối loạn tiêu hóa (như tiêu chảy, nôn mửa), mệt mỏi, không ăn, hoặc khối u hoặc mủ trong các vùng bị nhiễm trùng.
4. Điều trị: Điều trị nhiễm trùng sơ sinh thường liên quan đến việc sử dụng kháng sinh hoặc thuốc chống nhiễm trùng. Phương pháp điều trị cụ thể sẽ phụ thuộc vào loại vi khuẩn, virus, nấm gây nhiễm trùng và vùng bị ảnh hưởng. Đôi khi, phẫu thuật hoặc thuốc chống vi khuẩn trực tiếp vào khối u hoặc mủ cũng có thể được áp dụng.
5. Phòng ngừa: Để ngăn ngừa nhiễm trùng sơ sinh, mẹ bầu cần tuân thủ các biện pháp vệ sinh cá nhân tốt, tiêm phòng đầy đủ và kiểm tra sức khỏe thường xuyên. Các nhân viên y tế cần tuân thủ các biện pháp vệ sinh và sử dụng thiết bị y tế an toàn.
Nhiễm trùng sơ sinh có thể được phân loại thành hai loại chính: nhiễm trùng nguyên phát (early-onset infection) và nhiễm trùng mắc phải sau khi sinh (late-onset infection).
1. Nhiễm trùng nguyên phát: Đây là loại nhiễm trùng xảy ra trong 48 giờ đầu tiên sau khi trẻ ra đời. Nhiễm trùng nguyên phát thường do vi khuẩn gây nên và có thể được truyền từ mẹ đã nhiễm khuẩn cho thai nhi qua quá trình mang thai hoặc khi sinh. Các loại vi khuẩn thường gây nhiễm trùng nguyên phát bao gồm Streptococcus agalactiae (hạch), Escherichia coli (E. coli), Listeria monocytogenes và các loại Staphylococcus khác.
2. Nhiễm trùng mắc phải sau khi sinh: Đây là loại nhiễm trùng xảy ra sau 48 giờ đầu tiên sau khi trẻ ra đời, thường trong vòng 7-90 ngày. Nhiễm trùng mắc phải sau khi sinh có thể do nhiều nguồn gốc khác nhau như vi khuẩn, virus hoặc nấm. Các vi khuẩn thường gây nhiễm trùng mắc phải sau khi sinh bao gồm Staphylococcus aureus, Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae và E. coli. Virus như herpes simplex và nấm như Candida albicans cũng có thể gây nhiễm trùng này.
Triệu chứng cụ thể của nhiễm trùng sơ sinh có thể khác nhau tùy thuộc vào loại và vị trí nhiễm trùng. Một số triệu chứng chung gồm sốt cao, lưỡi và da mắt ửng đỏ, biểu hiện của khối u hoặc mủ (như ói mửa, tiêu chảy, hay các dấu hiệu bất thường trong nước tiểu), rối loạn hô hấp (như khó thở, ho, ho có âm thanh), mất cân nặng, kích thích hoặc mệt mỏi.
Trong trường hợp nghi ngờ nhiễm trùng sơ sinh, việc phát hiện sớm, chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời rất quan trọng để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của trẻ. Trẻ sơ sinh nghi ngờ nhiễm trùng cần được chuyển tới bệnh viện và điều trị dưới sự giám sát của các chuyên gia y tế.
Mô hình nhạy cảm với kháng sinh của các chủng vi khuẩn từ nhiễm trùng vết thương và độ nhạy của chúng với các tác nhân địa phương thay thế tại Bệnh viện Đặc biệt Jimma, Tây Nam Ethiopia Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 13 - Trang 1-10 - 2014
Nhiễm trùng vết thương là một trong những vấn đề sức khỏe do sự xâm nhập và gia tăng của các sinh vật gây bệnh. Thông tin về các mầm bệnh địa phương và độ nhạy cảm với các tác nhân kháng khuẩn, cũng như các tác nhân địa phương như axit acetic là rất quan trọng để điều trị bệnh nhân thành công. Nghiên cứu nhằm xác định mô hình nhạy cảm kháng khuẩn của các chủng vi khuẩn từ nhiễm trùng vết thương và độ nhạy của chúng với các tác nhân địa phương thay thế tại Bệnh viện Đặc biệt Jimma. Một nghiên cứu cắt ngang đã được thực hiện trên bệnh nhân nhiễm trùng vết thương đến Bệnh viện Đặc biệt Jimma, từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2013. Mẫu vết thương được thu thập bằng cách sử dụng bông gòn vô trùng và được xử lý để phân lập vi khuẩn và kiểm tra độ nhạy với các tác nhân kháng khuẩn, axit acetic, hydrogen peroxide và dung dịch dabkin theo kỹ thuật vi sinh chuẩn. Các xét nghiệm sinh hóa được thực hiện để xác định loài của các sinh vật. Thử nghiệm độ nhạy được thực hiện bằng phương pháp khuếch tán đĩa Kirby-Bauer. Nồng độ ức chế tối thiểu và nồng độ diệt khuẩn tối thiểu được xác định bằng phương pháp pha loãng ống. Trong nghiên cứu này, 145 chủng vi khuẩn đã được thu hồi từ 150 mẫu cho thấy tỷ lệ phân lập là 87,3%. Vi khuẩn chiếm ưu thế được phân lập từ các vết thương nhiễm trùng là Staphylococcus aureus 47 (32,4%) tiếp theo là Escherichia coli 29 (20%), loài Proteus 23 (16%), Staphylococci không đông tụ 21 (14,5%), Klebsiella pneumoniae 14 (10%) và Pseudomonas aeruginosa 11 (8%). Tất cả các chủng đều cho thấy tỷ lệ kháng kháng sinh cao đối với ampicillin, penicillin, cephalothin và tetracycline. Mô hình kháng đa thuốc tổng thể được tìm thấy là 85%. Axit acetic (0,5%), dung dịch Dabkin (1%) và 3% hydrogen peroxide là diệt khuẩn đối với tất cả các vi khuẩn phân lập và hiệu ứng gây chết được quan sát thấy khi áp dụng trong 10 phút. Trong thử nghiệm độ nhạy in vitro, ampicillin, penicillin, cephalothin và tetracycline là những tác nhân kém hiệu quả nhất. Gentamicin, norfloxacin, ciprofloxacin, vancomycin và amikacin là những kháng sinh hiệu quả nhất. Axit acetic (0,5%), dung dịch dabkin (1%) và H2O2 (3%) là diệt khuẩn đối với tất cả các chủng vi khuẩn phân lập.
#nhiễm trùng vết thương #khuẩn #nhạy cảm với kháng sinh #tác nhân địa phương #Bệnh viện Đặc biệt Jimma
Đề tài Propionibacterium acnes và Staphylococcus epidermidis: Các vi sinh vật cơ hội từ các tổn thương nội nha khó chữa Dịch bởi AI Journal of Clinical Microbiology - Tập 48 Số 11 - Trang 3859-3869 - 2010
TÓM TẮT
Vi sinh vật có khả năng canh tác từ 20 tổn thương nội nha khó chữa (9 tổn thương có áp xe và 11 tổn thương không có áp xe) đã được xác định. Trong đó,
Propionibacterium acnes
và
Staphylococcus epidermidis
là những sinh vật phổ biến nhất. Số lượng loài được xác định từ các tổn thương có áp xe (14.1 ± 2.6) cao hơn đáng kể (
P
< 0.001) so với số lượng từ những tổn thương không có áp xe (7.4 ± 5.9). Sự so sánh các chủng vi sinh vật ngoại miệng bằng phương pháp PCR với mẫu từ cùng một đối tượng cho thấy rằng quần thể nội nha và da là khác nhau đáng kể. Các mẫu
P. acnes
được đánh giá dựa trên so sánh trình tự gen
recA, chỉ có ba loại (loại I, II và III) được xác định trong số 125 mẫu đã kiểm tra. Tuy nhiên, chúng tôi phát hiện rằng các mẫu loại I (IA và IB) chủ yếu được phân lập từ da, trong khi loại II và III có khả năng được phân lập từ các tổn thương nội nha cao hơn đáng kể (
P
< 10
−10
). Chúng tôi nhận thấy rằng độ bền phylotypes của
recA
không mạnh khi so sánh các trình tự gen một phần của sáu yếu tố gây bệnh dự kiến, PAmce, PAp60, PA-25957, PA-5541, PA-21293 và PA-4687. Các cây phát sinh loài nhánh lập tức khác nhau, và có bằng chứng đáng kể (kiểm tra phi;
P
= 2.2 × 10
−7
) về sự tái tổ hợp, với sự không đồng nhất đáng kể về mặt phát sinh loài trong các cụm. Các THể
P. acnes
và
S. epidermidis
phân lập từ các nhiễm trùng nội nha khó chữa, có hoặc không có áp xe quanh chóp răng, có khả năng là các nhiễm trùng bệnh viện.
#Propionibacterium acnes #Staphylococcus epidermidis #tổn thương nội nha #nhiễm trùng bệnh viện #áp xe #vi sinh vật cơ hội #phân lập gen #độ bền phylotypes #nội nha khó chữa.
Nhiễm trùng Burkholderia glumae ở trẻ sơ sinh mắc bệnh u hạt mãn tính Dịch bởi AI Journal of Clinical Microbiology - Tập 45 Số 2 - Trang 662-665 - 2007
Tóm tắt
Một bé trai 8 tháng tuổi phát triển một khối u thối rữa ở phổi, từ đó
Burkholderia glumae
được thu hồi, dẫn đến chẩn đoán bệnh u hạt mãn tính (CGD). Trong khi các chủng khác của
Burkholderia
đã được xác định là mầm bệnh quan trọng ở những người mắc CGD,
B. glumae
trước đây chưa được báo cáo gây nhiễm trùng ở người.
#Bệnh u hạt mãn tính #nhiễm trùng Burkholderia glumae #cơ thể miễn dịch yếu #bệnh trẻ sơ sinh #chẩn đoán vi khuẩn
Procalcitonin như một dấu hiệu chỉ điểm nhiễm trùng trong viêm gan do rượu Dịch bởi AI Hepatology International - Tập 8 - Trang 436-442 - 2014
Chẩn đoán sớm nhiễm trùng trong viêm gan do rượu là rất quan trọng để lựa chọn liệu pháp phù hợp. Vai trò của procalcitonin (PCT) trong việc chẩn đoán nhiễm trùng ở bệnh nhân viêm gan do rượu và hội chứng đáp ứng viêm toàn thân (SIRS) vẫn chưa được làm rõ. Tất cả bệnh nhân nhập viện với viêm gan do rượu và SIRS đều được đo nồng độ PCT huyết thanh và protein phản ứng C (CRP) trong vòng 24 giờ kể từ khi nhập viện. Bệnh nhân được phân thành hai nhóm: nhóm 1, viêm gan do rượu với chỉ có SIRS; nhóm 2, viêm gan do rượu với cả SIRS và nhiễm trùng. Khả năng của PCT trong việc dự đoán nhiễm trùng đã được đánh giá bằng cách phân tích đặc điểm hoạt động của người nhận (ROC) để so sánh hai nhóm. Nghiên cứu bao gồm 11 bệnh nhân ở nhóm 1 và 29 ở nhóm 2. Tất cả đều là nam (tuổi trung vị 42 tuổi; khoảng từ 24 đến 65 tuổi). Tuổi, liều lượng và thời gian tiêu thụ rượu, các tham số sinh hóa và điểm số MELD trung vị không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm. PCT và CRP cao hơn đáng kể ở nhóm 2 so với nhóm 1 (p < 0,05). Phân tích ROC cho thấy AUC là 0,81 (95 % CI 0,66–0,96) và 0,83 (95 % CI 0,68–0,93) cho PCT và CRP, tương ứng, trong việc phân biệt nhiễm trùng với SIRS không có nhiễm trùng. Mức cắt của 0,57 mcg/l cho PCT (độ nhạy 79 %, độ đặc hiệu 82 %) trong việc chẩn đoán nhiễm trùng ở bệnh nhân viêm gan do rượu và SIRS là tương đương với mức cắt serum CRP là 2,3 mg/dl (độ nhạy 82,0 %, độ đặc hiệu 75 %). PCT huyết thanh có thể là một dấu hiệu hữu ích để chẩn đoán nhiễm trùng ở bệnh nhân viêm gan do rượu và SIRS và so sánh có lợi với nồng độ CRP huyết thanh.
#Procalcitonin #nhiễm trùng #viêm gan do rượu #hội chứng đáp ứng viêm toàn thân #chẩn đoán sớm #marker sinh học
Một số nhận xét về tình hình nhiễm khuẩn sơ sinh sớm ở trẻ đủ tháng tại Trung tâm Chăm sóc và Điều trị sơ sinh Bệnh viện Phụ Sản Trung ươngMục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng ở trẻ sơ sinh đủ tháng bị NKSS sớm.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, mô tả hàng loạt ca sơ sinh đủ tháng mấc NK sớm (<72h sau sinh) tại Bv Phụ sản TW năm 2013-2014.
Kết quả: Tỷ lệ trẻ sơ sinh đủ tháng mắc NKSS sớm là 1.7%. Tỷ lệ trẻ trai mắc NKSS sớm là 66.7% cao hơn so với trẻ gái 33.3%. Tỷ lệ mổ đẻ là 71.2%. Các triệu chứng lâm sàng thường gặp là dấu hiệu về hô hấp (73.3% )chủ yếu là tím tái, ngừng thở. Triệu chứng về da (66.7%), và tiêu hóa (62.9%). Triệu chứng cận lâm sàng 70.3% các trường hợp NKSS sớm có CRP (+),55.5 có số lượng BC tăng 40.7% có TC giảm . Liên cầu B là vi khuẩn chiếm ưu thế gây NKSS sớm với tỷ lệ 37%. Không thấy sự khác biệt về các đặc điểm dịch tễ học, triệu chứng lâm sàng , xét nghiệm và yếu tố nguy cơ giữa 2 nhóm NKSS sớm –có bằng chứng về vi khuẩn (cấy máu duong tính) và nhóm NKSS sớm – không tìm thấy bằng chứng về vi khuẩn (cấy máu âm tính).
#nhiễm khuẩn sơ sinh sớm #đủ tháng #cấy máu
Một số đặc điểm kháng kháng sinh và yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện do Klebsiella pneumoniae kháng carbapenem tại Khoa Hồi sức tích cực - Bệnh viện Bạch Mai (7/2019 - 8/2020)Tóm tắt
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm kháng kháng sinh và yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn bệnh viện do K. pneumoniae kháng carbapenem (CRKP). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, so sánh đối chứng sử dụng phân tích hồi quy logistic trên 60 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn bệnh viện do K. pneumoniae từ tháng 7/2019 đến tháng 8/2020. Kết quả: Các chủng K. pneumoniae phân lập được kháng hầu hết với các nhóm kháng sinh, trong đó carbapenem là 78,3 - 80%. Các chủng này còn nhạy cảm tương đối tốt với fosfomycin (60,0%), amikacin (75,0%), colistin (86,7%). So sánh tỷ lệ kháng của nhóm CRKP đều cao hơn nhóm K. pneumoniae còn nhạy với carbapenem, và có ý nghĩa ở các kháng sinh nhóm cephalosporin, quinolone. Các yếu tố nguy cơ nhiễm CRKP bệnh viện: Tiền sử dùng carbapenem, colistin 30 ngày trước, đặt nội khí quản, thở máy xâm nhập, tiền sử phẫu thuật 30 ngày trước, dinh dưỡng tĩnh mạch, đặt sonde dạ dày và điểm APACHE II ≥ 15 khi nhập viện. Tiền sử dùng carbapenem trước đó 30 ngày là yếu tố nguy cơ độc lập cao nhất làm tăng khả năng nhiễm CRKP. Kết luận: Tỷ lệ K. pneumoniae kháng carbapenem là 80%. Tiền sử dùng carbapenem 30 ngày trước đó là yếu tố nguy cơ cao nhất làm gia tăng khả năng nhiễm khuẩn bệnh viện do K. pneumoniae kháng carbapenem.
Từ khóa: K. pneumoniae, K. pneumoniae kháng carbapenem, yếu tố nguy cơ, nhiễm trùng bệnh viện.
#K. pneumoniae #K. pneumoniae kháng carbapenem #yếu tố nguy cơ #nhiễm trùng bệnh viện
Tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B ở 35 – 37 tuần thai kỳ và hiệu quả của kháng sinh dự phòng lây nhiễm trước sinhMục tiêu: Xác định tỷ lệ thai kỳ mang liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) ở 35 – 37 tuần và đánh giá hiệu quả dự phòng lây nhiễm trước sinh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 1.574 thai phụ quản lý thai kỳ tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City từ 1/1/2019 đến 1/1/2020. Chẩn đoán thai kỳ mang GBS dựa vào nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn bằng mẫu dịch âm đạo ở thời điểm 35 - 37 tuần. Liệu pháp dự phòng lây nhiễm trước sinh được áp dụng theo khuyến cáo của CDC, kết quả thai kỳ được đánh giá đối với mẹ và trẻ sơ sinh.
Kết quả: Tỷ lệ thai phụ mang GBS từ 35 - 37 tuần là 17,5% (95%CI: 15,5 - 19,7). 100% GBS nhạy cảm với các kháng sinh nhóm β-Lactam và Vancomycin, chỉ có 18,6% nhạy cảm với Clindamycin. Tất cả các thai kỳ mang GBS được dự phòng lây nhiễm trước sinh theo khuyến cáo CDC. Thai kỳ mang GBS có liên quan đến nguy cơ vỡ ối, rỉ ối ≤ 37 tuần (OR 2,7; 95%CI: 1,3 - 5,6; p = 0,010) và sinh non (OR 2,9; 95%CI: 1,8 - 4,7; p < 0,0001), tuy nhiên, không tăng nguy cơ mổ lấy thai, nhiễm trùng vết mổ và nhiễm trùng hậu sản. So với nhóm không mang GBS, thai kỳ mang GBS được dự phòng lây nhiễm trước sinh không tăng nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm (OR 1,3; 95%CI: 0,7 - 2,3; p = 0,431), kể cả ở nhóm theo dõi chuyển dạ (OR 1,6; 95%CI: 0,7 - 3,4; p = 0,239).
Kết luận: Tỷ lệ thai kỳ mang GBS trong thai kỳ tương đối cao. Thai kỳ mang GBS sử dụng liệu trình dự phòng lây nhiễm trước sinh không làm tăng nguy cơ kết quả thai kỳ bất lợi ở mẹ và nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm.
#Liên cầu khuẩn nhóm B #nhiễm trùng sơ sinh #liệu pháp kháng sinh dự phòng trước sinh #nhiễm trùng hậu sản
Nghiên cứu tình hình viêm nhiễm đường sinh dục dưới và một số đặc điểm liên quan ở phụ nữ mang thai ba tháng cuốiĐặt vấn đề: Viêm nhiễm đường sinh dục dưới là một trong những rối loạn thường gặp nhất khiến bệnh nhân tìm đến bác sỹ sản phụ khoa. Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai được báo cáo rất cao.
Mục tiêu:Mô tả tình hình viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai ba tháng cuối và tìm hiểu một số đặc điểm liên quan viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai ba tháng cuối.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Sử dụng kỹ thuật nhuộm Gram và nuôi cấy định danh vi khuẩn dịch âm đạo.
Kết quả: Nghiên cứu trên 103 phụ nữ mang thai từ 28 tuần trở lên có tiết dịch âm đạo bất thường. Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới là 46,6%. Các tác nhân gồm 32,0% nhiễm nấm Candida âm đạo; 13,6% nhiễm khuẩn (kỵ khí) âm đạo và 15,5% viêm hiếu khí âm đạo. Có 13 sản phụ (12,5%) nhiễm kết hợp các tác nhân. Tỷ lệ sản phụ nhiễm Liên cầu nhóm B đường sinh dục dưới là 4,9%. Tỷ lệ nhiễm trùng sơ sinh sớm của trẻ sinh ra từ sản phụ có nhiễm Liên cầu nhóm B đường sinh dục dưới cao hơn trẻ sinh ra từ sản phụ không nhiễm (p<0,05).
Kết luận: Viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai ba tháng cuối cao. Các tác nhân thường gặp theo thứ tự là nấm Candida, vi khuẩn hiếu khí và vi khuẩn kỵ khí. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình hình nhiễm Liên cầu nhóm B đường sinh dục dưới của sản phụ với tình hình nhiễm trùng sơ sinh sớm của trẻ.
#Đường sinh dục dưới #nấm Candida #nhiễm khuẩn âm đạo #viêm âm đạo hiếu khí #Liên cầu nhóm B #nhiễm trùng sơ sinh sớm
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ NỒNG ĐỘ PROCALCITONIN HUYẾT THANH TRONG NHIỄM TRÙNG SƠ SINH GIAI ĐOẠN SƠ SINH SỚM TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NINH THUẬNĐặt vấn đề: Nhiễm trùng sơ sinh giai đoạn sơ sinh sớm (NTSSS) là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong sơ sinh trên toàn cầu. Mục tiêu: Mô tả lâm sàng và nồng độ procalcitonin huyết thanh trong nhiễm trùng sơ sinh giai đoạn sơ sinh sớm. Đối tượng và Phương pháp: Nghiên cứu theo dõi dọc trên 39 trẻ sơ sinh từ 1-7 ngày tuổi, được điều trị nhiễm trùng sơ sinh tại khoa Nhi, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Thuận từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2021. Kết quả: Lâm sàng: Toàn thân: da vàng tái (12,8%), sốt (12,8%), nổi vân tím (12,8%). Tim mạch: tần số tim ≥160 lần/phút (15,4%), CRT >3 giây (7,7%). Hô hấp: nhịp thở ≥60 lần/ phút (33,3%) và <20 lần/phút (12,8%), dấu gắng sức (10,3%), cơn ngưng thở (7,7%). Thần kinh: giảm phản xạ (51,3%), trương lực cơ giảm (30,8%), kém linh hoạt (20,5%). Tiêu hóa: bú kém/ bỏ bú (38,5%), nôn (30,8%), chướng bụng (12,8%). Trung vị nồng độ PCT huyết thanh nhóm NTSSS (4,3 ng/ml) cao hơn so với nhóm không NTSSS (p<0,05). Diện tích dưới đường cong 0,96 (p<0,001) nồng độ PCT cao hoặc thấp có khả năng xác định được NTSSS với điểm cắt 0,17 ng/ml thì độ nhạy 97% và độ đặc hiệu 86%. Kết luận: Lâm sàng của NTSSS đa dạng và PCT có giá trị rất tốt trong chẩn đoán NTSSS.
#Nhiễm trùng sơ sinh #Procalcitonin
Trường hợp sinh sống từ phụ nữ có hội chứng Turner thể khảm được điều trị bằng phương pháp xin noãnHội chứng Turner (TS: Turner Syndrome) là một trong những hội chứng phổ biến liên quan đến rối loạn nhiễm sắc thể giới tính ở nữ giới. Khoảng 95-98% bệnh nhân hội chứng Turner vô sinh do suy buồng trứng. Khả năng có thai tự nhiên ở những bệnh nhân này gần như rất hiếm. Ngoài ra, khi mang thai kể cả bằng noãn tự thân hay noãn hiến thì phụ nữ hội chứng Turner đều phải đối diện với nhiều nguy cơ trong thai kỳ, như nguy cơ sẩy thai, tiền sản giật (TSG), nguy cơ bóc tách động mạch chủ đe dọa tính mạng người mẹ và thai nhi. Báo cáo này trình bày một trường hợp bệnh nhân hội chứng Turner thể khảm mos45,X[5]/46,del(X)(q24) mang thai thành công nhờ nguồn noãn hiến tặng và sinh được một bé gái khỏe mạnh nặng 2900gr ở tuổi thai 39 tuần dưới sự phối hợp và theo dõi sát của nhiều chuyên khoa.
#Hội chứng Turner #rối loạn nhiễm sắc thể #suy buồng trứng sớm #IVF #xin noãn #bệnh lý tim mạch